Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Tránh tái phát viêm màng não ở trẻ sơ sinh

Câu hỏi:Con của em sinh được 1 tháng 5 ngày và sinh mổ nhưng thiếu gần 1 tháng. Bé được 2, 6kg nhưng bé lại bị viêm màng não đang chữa trị ở bệnh viện nhi đồng 2. Giờ bé khỏi bệnh rồi vậy cho em hỏi là sau khi về nhà em nên làm nhưng gì để không phải mắc bệnh viêm màng não nữa?

Trả lời:

BS. Nguyễn Văn An-Chuyên khoa Nội-Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, cho biết:

Nguyên nhân gây bệnh viêm màng não có thể do vi trùng hay siêu vi trùng. Đa số các trường hợp vi trùng hay siêu vi trùng từ vùng mũi họng xâm nhập vào màng não và gây viêm màng não.

Bệnh thường xảy ra ở trẻ nhỏ vào mùa nắng nóng hay lúc chuyển mùa vì có nhiều trẻ mắc bệnh đường hô hấp và là thời điểm thuận lợi để một số vi trùng và siêu vi trùng xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương gây viêm màng não.

Vì vậy để phòng ngừa bệnh viêm màng não bạn nên giữ ấm, chăm sóc tốt trẻ những lúc thời tiết thay đổi, khi trẻ bị viêm hô hấp trên hay bị viêm amidan, viêm họng mủ cần phải điều trị tích cực và đầy đủ dưới sự theo dõi của bác sĩ. Tuyệt đối không tự ý uống thuốc kháng sinh hoặc tự ý bỏ thuốc. Nếu là viêm màng não dễ làm mất đi những triệu chứng quí giá ban đầu (giúp cho bác sĩ chẩn đóan chính xác). Tuy là viêm màng não nhưng không có những biểu hiện rõ, khó chẩn đoán và dễ bị bỏ sót, chỉ khi vào viên, được chọc dò tủy sống mới phát hiện ra.

BS. Nguyễn Văn An

Sinh mổ, kháng sinh và sữa công thức ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ

Kết quả cho thấy những em bé này có nguy cơ cao bị bệnh hen, bệnh tự miễn và béo phì.

So với trẻ sinh qua đường âm đạo, những trẻ được sinh mổ có tính đa dạng hình thái lớn hơn đáng kể trong những tuần sau sinh. Tuy nhiên, thông số này giảm ở trẻ được sinh mổ trong tháng đầu tiên, sau đó có biểu hiện thấp tới khi trẻ được 2 tuổi.

Theo GS Martin Blaaser, tác giả nghiên cứu ở ĐH New York, kết quả nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy các thực hành hiện nay đã làm thay đổi cộng đồng vi khuẩn ở trẻ trong năm đầu đời. Thay đổi phương thức sinh đẻ làm gián đoạn sự tương tác tự nhiên giữa đa dạng và thống trị.

Hơn nữa, việc điều trị bằng kháng sinh cũng làm giảm đáng kể sự đa dạng các loài vi khuẩn ngay sau khi sinh. Trẻ em được nuôi bằng sữa công thức bị giảm tính đa dạng vi khuẩn trong năm thứ 2 của cuộc đời.

Nghiên cứu được công bố trên tờ Science Translational Medicine tập trung vào hệ vi khuẩn, sự pha trộn các loài vi khuẩn sống trên da người và trong ruột và cùng phát triển với con người để đóng vai trò tiêu hóa, trao đổi chất và miễn dịch.

Nhóm nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả của thực hành hiện đại trong phát triển hệ vi khuẩn đường ruột ở 43 trẻ Mỹ, trong đó 24 trẻ được sinh qua đường âm đạo và 19 trẻ được sinh mổ. Sau đó họ sử dụng kỹ thuật di truyền và thống kê để phân tích hàng triệu mảnh ADN vi khuẩn trong các mẫu.

BS Tuyết Mai

(Theo Timesofindia)

Đề phòng tử vong sốt rét trẻ em

Các địa phương vùng sốt rét lưu hành và vùng có nguy cơ sốt rét quay trở lại cần đề phòng bệnh tấn công đối tượng trẻ em gây hậu quả tử vong.

Một trường hợp tử vong của bệnh nhi nữ, tên là Pui P. 5 tuổi, người dân tộc Gia Rai, cư trú tại xã Iao Ia, huyện Grai, tỉnh Gia Lai; còn nhỏ và ở với gia đình tại thôn bản, thuộc đối tượng không di biến động đi rừng, ngủ rẫy cùng với cha mẹ. Bệnh khởi phát ở nhà 3 ngày, khi vào bệnh viện được chẩn đoán sốt rét do nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum, thể tư dưỡng, mật độ ký sinh trùng 4 + (FT++++). Bệnh nhi tử vong trước 24 giờ tại bệnh viện tỉnh Gia Lai với nguyên nhân sốt rét ác tính đa phủ tạng.

Đặc điểm sốt rét trẻ em

Trẻ em là một đối tượng nguy cơ có thể dễ bị mắc bệnh sốt rét nếu không được phòng vệ tốt. Khi bị mắc bệnh, sốt rét ở trẻ em có những đặc điểm tùy thuộc lứa tuổi.

- Trẻ còn bú mẹ dưới 3 - 6 tháng tuổi ít bị mắc bệnh sốt rét và ít tử vong do sốt rét vì trong máu còn huyết sắc tố F (foetus = bào thai). Ngoài ra còn thụ hưởng kháng thể của người mẹ và do bú mẹ nên thiếu chất PABA (para-amino benzoic acid), vì vậy ký sinh trùng sốt rét không tổng hợp được acid folic để phát triển.

 Hướng dẫn nhân dân xã Tân Lộc Đông, huyện Thới Bình tẩm mùng phòng, chống SXH và sốt rét.Ảnh: Đ.Duẩn

- Trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên sống tại vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ mắc bệnh sốt rét và tử vong do sốt rét thường cao hơn người lớn, cao nhất ở lứa tuổi từ 4 - 5 tuổi.

- Trẻ em ở lứa tuổi từ 1 - 4 tuổi bị mắc bệnh sốt rét, đặc điểm lâm sàng thường hay gặp là có cơn co giật khi có sốt cao, triệu chứng rối loạn tiêu hóa xảy ra khá phổ biến như nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, bụng trướng đầy hơi. Ngoài ra còn bị thiếu máu nhanh, lách sưng dễ dàng, tình trạng rối loạn dinh dưỡng phát triển nhanh. Chu kỳ cơn sốt thường không đều đặn, đôi khi không có giai đoạn rét run, đường huyết thường giảm, hiếm gặp biến chứng nặng ở gan được biểu hiện bằng bilirubin và men SGOT (Serum Glutamic Oxaloacetic Transaminase), SGPT (Serum Glutamic Pyruvic Transaminase) cao và cũng hiếm gặp biến chứng ở thận với suy thận cấp tính thực thể. Một đặc điểm khác được ghi nhận là bệnh nhi thường hay bị ho và có triệu chứng viêm khí quản, phế quản. Tỷ lệ sốt rét trẻ em ở lứa tuổi này chuyển thành sốt rét ác tính thể não thấp hơn so với người lớn.

Trẻ em là một đối tượng nhạy cảm và có nhiều nguy cơ, khi bị mắc bệnh sốt rét nếu không được cơ sở y tế phát hiện, chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ chuyển sang sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong.

Sốt rét ác tính trẻ em

Trẻ em bị sốt rét ác tính thường được biểu hiện bằng các triệu chứng sốt cao, thiếu máu, rối loạn ý thức khi điểm Blantyre dưới 5, hôn mê khi điểm Blantyre bằng hoặc dưới 3, bị co giật, hạ đường huyết, rối loạn tiêu hóa, toan chuyển hóa... Sốt rét ác tính ở trẻ em nếu không được xử trí, điều trị kịp thời sẽ dễ chuyển đến tử vong.

Trong điều trị đặc hiệu, sử dụng thuốc artesunate tiêm. Dùng lọ thuốc có 60mg bột artesunate pha với 1ml natri bicarbonate 5%, lắc kỹ cho bột artesunate tan hoàn toàn, dung dịch trong suốt, sau đó pha thêm 5ml natri chlorure 0,9% để tiêm tĩnh mạch. Dùng liều giờ đầu 2,4mg/kg cân nặng; tiêm nhắc lại 1,2mg/kg cân nặng vào giờ thứ 12 của ngày đầu. Sau đó, mỗi ngày tiêm một liều 1,2mg/kg cân nặng đến khi bệnh nhi tỉnh, có thể uống được, chuyển sang dùng thuốc dihydroartemisinine-piperaquine cho đủ liều điều trị.

 

Nếu tại cơ sở y tế không có cân trọng lượng, có thể dùng thuốc artesunate tiêm căn cứ theo lứa tuổi được quy định trong phác đồ điều trị của Bộ Y tế. Trong kỹ thuật pha dung dịch thuốc, việc pha thêm 5ml natri chlorure 0,9% vào lọ thuốc sau khi 60mg bột thuốc đã được hòa tan với ống thuốc 1ml natri bicarbonate 5% với mục đích để chia liều lượng chính xác cho bệnh nhân là trẻ em; cần chú ý đến vấn đề này.

Ngoài điều trị đặc hiệu bằng thuốc sốt rét artesunate tiêm, các cơ sở y tế phải quan tâm đến việc điều trị triệu chứng và biến chứng sốt rét ác tính trẻ em trong nhiệm vụ hồi sức cấp cứu chung nhưng chú ý đến các biện pháp điều trị chống co giật, xử trí hạ đường huyết, xử trí tình trạng thiếu máu và điều chỉnh tình trạng mất nước, rối loạn điện giải, kiềm toan. 

Các cơ sở y tế, kể cả y tế tuyến đầu nên phát động khẩu hiệu hành động “không có sốt rét ác tính, không có tử vong” để tập trung phấn đấu thực hiện tốt việc phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời sốt rét thể thông thường; nhất là đối tượng trẻ em. Không để sốt rét thể thông thường có điều kiện chuyển sang sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong.               

 

BS.Nguyễn võ hinh

Hút thuốc thụ động liên quan với dị ứng thực phẩm ở trẻ

“Phơi nhiễm sớm với khói thuốc thụ động là yếu tố nguy cơ đã được biết gây bệnh hen, nhạy cảm thực phẩm và eczema ở trẻ. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xem xét về tác động của nó lên các triệu chứng liên quan đến thực phẩm ở trẻ”, đồng tác giả nghiên cứu Anna Bergstrom thuộc Viện Karolinska ở Thụy Điển cho biết.

Trong nghiên cứu mới này, các tác giả đã theo dõi sức khỏe của gần 3.800 trẻ em Thụy Điển trong khoảng từ năm 1994 đến 1996. Những trẻ này được theo dõi đến khi 16 tuổi. Nhóm nghiên cứu cũng khảo sát định kỳ cha mẹ của trẻ để xem liệu trẻ có các dấu hiệu dị ứng thực phẩm hay không. Trẻ cũng được kiểm tra để xem có phản ứng với một số loại kháng nguyên trong thực phẩm.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ có cha mẹ hút thuốc khi chúng mới được 2 tháng tuổi dễ có các dấu hiệu dị ứng thực phẩm, đặc biệt là dị ứng trứng và lạc. Tuy nhiên, nghiên cứu này không chứng minh rằng phơi nhiễm khói thuốc thụ động trực tiếp gây dị ứng thực phẩm mà chỉ cho thấy mối liên quan giữa các yếu tố.

Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị thường niên của Học viện Dị ứng, hen & miễn dịch Hoa Kỳ.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Kịp thời xử trí khi bị sốc phản vệ

Phác đồ điều trị cụ thể có thể khác nhau tùy thuộc vào trình độ và kỹ năng của thày thuốc cũng như điều kiện trang thiết bị, tuy nhiên, adrenaline tiêm bắp vẫn là liệu pháp điều trị căn bản và có tính chất cứu mạng người bệnh đối với dạng phản ứng nguy hiểm này. Vì lý do đó, adrenaline cần phải được chuẩn bị trước ở tất cả những tình huống có nguy cơ xảy ra sốc phản vệ như tiêm truyền thuốc, truyền dịch, gây tê gây mê, tiếp xúc với ong... Về cơ chế, adrenaline tác động trên các thụ thể thần kinh giao cảm giúp giải quyết hầu hết các triệu chứng của sốc phản vệ, ví dụ như thuốc có tác dụng co mạch (giúp tăng huyết áp, giảm phù nề, ban đỏ), giãn cơ trơn phế quản, tăng sức co bóp cơ tim... Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, dùng adrenaline trong điều trị sốc phản vệ càng sớm thì hiệu quả càng cao, hầu hết các trường hợp cấp cứu sốc phản vệ thất bại là do chậm dùng adrenaline.

Tuy nhiên, giống như mọi thứ thuốc khác, adrenaline cũng có thể gây ra không ít các tác dụng không mong muốn, đặc biệt khi dùng đường tiêm truyền tĩnh mạch, thường gặp nhất là run chân tay, nhịp tim nhanh, đau tức ngực... Một số trường hợp nhồi máu cơ tim được cho là có liên quan với việc dùng adrenaline đường tĩnh mạch trong điều trị sốc phản vệ, mặc dù bản thân sốc phản vệ cũng có thể gây ra biến chứng này. Adrenaline đường tiêm bắp cho đến nay vẫn được coi là đường dùng ưu việt nhất trong điều trị sốc phản vệ do tính an toàn và hiệu quả cao. Khi đã được chẩn đoán là sốc phản vệ, bệnh nhân cần được nhanh chóng đặt trong tư thế nằm ngửa, thở ôxy, tiêm adrenaline vào bắp thịt với liều lượng phù hợp tùy từng trường hợp và lứa tuổi. Có thể tiêm nhắc lại sau 10 đến 15 phút cho đến khi huyết áp ổn định, vị trí tiêm nên được day nhẹ để thuốc dễ hấp thu. Nếu bệnh nhân bị tụt huyết áp nặng và kéo dài, adrenaline có thể được pha loãng và truyền tĩnh mạch để duy trì huyết áp.

Những trường hợp có khó thở hoặc thở rít không đáp ứng với adrenaline, cần cho bệnh nhân khí dung các thuốc giãn phế quản như salbutamol, terbutaline, hoặc tiêm tĩnh mạch diaphyllin. Đặt nội khí quản hoặc mở khí quản là cần thiết ở những bệnh nhân có phù nề đường hô hấp không đáp ứng với các thuốc điều trị. Các thuốc kháng histamine như diphenhydramine, dimedrol cũng nên được sử dụng và có hiệu quả tốt với các triệu chứng ở da và niêm mạc. Corticosteroid cũng cần được dùng sớm, có thể sử dụng hydrocortison 120mg hoặc methylprednisolon 40mg tiêm tĩnh mạch, nhắc lại sau 4-6 giờ. Nếu sốc phản vệ gây ra do các thuốc tiêm bắp, tiêm dưới da hoặc do côn trùng đốt, nên garo ở phía trên vị trí tiêm hoặc bị đốt, áp lạnh hoặc tiêm adrenaline tại chỗ để hạn chế sự xâm nhập của dị nguyên vào máu (do tác dụng co mạch của thuốc). Những trường hợp sốc phản vệ do thức ăn nên được rửa dạ dày để loại bỏ những thức ăn gây dị ứng còn sót lại. Sau khi tình trạng sốc ổn định, bệnh nhân cần được theo dõi tại bệnh viện ít nhất 6-24 giờ để đề phòng sốc phản vệ có thể tái lại.

Những bệnh nhân có cơ địa dị ứng hoặc có tiền sử đã bị sốc phản vệ phải được tư vấn và hướng dẫn để có thể nhận biết được các dấu hiệu sớm của sốc phản vệ và có những biện pháp can thiệp kịp thời.

Nhận biết lao sơ nhiễm ở trẻ em

Ở trẻ em, lao sơ nhiễm là bệnh thường gặp. Bệnh ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển cơ thể trẻ và có thể gây ra những hậu quả nặng nề nếu lao sơ nhiễm chuyển thành lao kê, lao phổi, lao màng não. Triệu chứng lao sơ nhiễm ở trẻ rất đa dạng, phong phú, có thể cấp tính hoặc từ từ. Ở trẻ có biểu hiện cấp tính: trẻ sốt cao 39 - 400C, kèm theo nôn, co giật, ban đỏ ngoài da… Sốt kéo dài trên 3 tuần.

 

 Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Ở trẻ có biểu hiện từ từ thì chỉ thấy trẻ sốt nhẹ kéo dài trên 3 tuần,  nhiệt độ buổi chiều cao hơn buổi sáng, trẻ gầy sút, chậm lên cân, biếng ăn, hay quấy khóc, ho khan, hay có rối loạn tiêu hóa (ăn uống chậm tiêu, phân lúc lỏng lúc đặc, bụng luôn có cảm giác ậm ạch khó chịu). Giai đoạn toàn phát các triệu chứng trên rõ nét hơn, trẻ có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc kéo dài (sốt liên tục về chiều và đêm, ra mồ hôi trộm, sút cân, da xanh, ho nhiều). Khi thấy trẻ có các biểu hiện trên cần đưa trẻ đến chuyên khoa lao khám. Khi đã được xác định là lao sơ nhiễm, việc điều trị phải do thầy thuốc chuyên khoa lao quyết định.            

BS.Lê Văn Sơn

Béo phì làm tăng nguy cơ hen, dị ứng ở các bé gái

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lại phát hiện ra điều ngược lại ở các bé trai béo phì. So với những bé trai có cân nặng bình thường, những bé trai béo phì giảm nhẹ nguy cơ bị hen, dị ứng thực phẩm và eczema.

Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm y khoa SUNY Downstate ở New York đã xem xét 113 trẻ (45% là nữ và 55% là nam), khoảng ¼ trong số đó bị béo phì. Tất cả những trẻ này đều sống ở New York, độ tuổi từ 8 – 9.

Nhóm nghiên cứu xem xét tiền sử sức khỏe để đánh giá một loạt tình trạng dị ứng, bao gồm hen, dị ứng thực phẩm, dị ứng theo mùa và/hoặc eczema. Trẻ được chia theo điểm số dị ứng, những trẻ gặp càng nhiều tình trạng dị ứng điểm số càng cao. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, các bé gái béo phì có điểm số dị ứng cao hơn so với những bé gái có cân nặng bình thường (4 so với 2,6). Ngược lại, những bé trai béo phì lại có điểm số dị ứng thấp hơn một chút so với những bé có cân nặng bình thường (3 so với 3,4).

Các nhà nghiên cứu giả thuyết rằng, những khác biệt về hormone có thể khiến các bé gái dễ bị dị ứng hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ cho thấy mối liên quan chứ không chứng minh béo phì trực tiếp gây dị ứng và cần nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên quan này.

Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị thường niên của Học viện dị ứng, hen và miễn dịch Hoa Kỳ. Nghiên cứu được trình bày tại hội nghị khoa học nên được xem là sơ bộ cho đến khi được đăng trên tạp chí có bình duyệt.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Không dùng mật ong cho trẻ dưới 1 tuổi

PGS.TS Nguyễn Ngọc Sáng - Chuyên khoa Nhi - Trường Đại học Y - Dược Hải Phòng, cho biết: Trẻ bị các bệnh đường hô hấp đều có thể ho khan. Ho...